Lịch sử Úc đề cập đến lịch sử khu vực và nhân dân ở Thịnh vượng chung Úc và những cộng đồng bản địa và thuộc địa tiền thân của nó. Người Úc cổ đại được cho là lần đầu tiên đến đại lục Úc theo đường biển từ Đông Nam Á hải đảo vào khoảng 40.000-70.000 năm trước. Các truyền thống mỹ thuật, âm nhạc, tinh thần mà họ tạo nên nằm trong số những truyền thống tồn tại lâu nhất trong lịch sử nhân loại.
Lịch sử Úc đề cập đến lịch sử khu vực và nhân dân ở Thịnh vượng chung Úc và những cộng đồng bản địa và thuộc địa tiền thân của nó. Người Úc cổ đại được cho là lần đầu tiên đến đại lục Úc theo đường biển từ Đông Nam Á hải đảo vào khoảng 40.000-70.000 năm trước. Các truyền thống mỹ thuật, âm nhạc, tinh thần mà họ tạo nên nằm trong số những truyền thống tồn tại lâu nhất trong lịch sử nhân loại.
Cà phê Úc không chỉ là một loại cà phê, mà còn là một nền văn hóa; một trải nghiệm hoàn toàn khác khi thưởng thức cà phê của bạn. Từ dịch vụ theo yêu cầu riêng cho đến hương vị của cà phê, thực sự Cà phê Úc là một trải nghiệm độc đáo mà người Úc mang đến cho thế giới.
Theo Viện Barista, một yêu cầu đối với một nhân viên pha chế là phải biết cách pha chế nghệ thuật pha cà phê. Nhưng nó không chỉ để pha cà phê đẹp; nó cũng là một tuyên bố về hương vị của cà phê. Sữa được đánh bọt hoàn hảo cho phép nhân viên pha chế tạo ra tác phẩm nghệ thuật trên đầu, sữa bị cháy hoặc không mịn và cuối cùng làm hỏng trải nghiệm của bạn.
Với văn hóa cà phê Úc, khi bạn uống một tách cà phê, bạn sẽ cảm nhận được sự kết hợp của hương vị, hương thơm và cảm giác ngon miệng. Những thứ này tạo nên hương vị của đồ uống. Nhưng một số người cho rằng hương vị không chỉ là ba yếu tố này.
Đây là yêu cầu không thể thiếu ở đại đa số các địa điểm cà phê đặc sản. Bạn hầu như không bao giờ nhìn thấy một ly cà phê sữa đặc sản được đặt trên bàn của mình mà không có hoa tulip, dương xỉ hoặc trái tim. Điều này thể hiện một số kỹ năng nhất định, sự chú ý đến từng chi tiết và cam kết về chất lượng mà ít ai quan tâm đến văn hóa cà phê như người Úc.
Nghệ thuật pha cà phê tuyệt đẹp biểu thị tất cả những công việc khó khăn dành cho việc pha chế thức uống đó: ai đó quan tâm đến cà phê, thông qua hàng giờ thực hành, họ đã học được cách tạo ra nó và giờ đây họ đang nỗ lực hơn nữa để cung cấp một thức uống chất lượng cao trông như ngon như mùi vị của nó.
Lịch sử Nước Úc đã có rất nhiều thay đổi kể từ khi những cư dân nguyên thủy, tức là Thổ Dân Úc, sống trong các hệ thống xã hội phức tạp với những tập tục truyền thống phản ảnh mối liên hệ mật thiết với đất đai và môi trường.
Từ thời gian nguyên thủy xa xôi đó cho đến lúc những nhà thám hiểm Châu Âu da trắng đầu tiên, những kẻ tội phạm và những di dân tự do đầu tiên đặt chân đến Úc, và gần hơn nữa là những đợt di dân từ khắp nơi trên thế giới, nước Úc đã vươn lên tồn tại, vượt qua những đợt khủng hoảng kinh tế, những cuộc chiến tranh cùng những vụ xì-căng-đan chính trị.
Từ đó tạo dựng những thành phố năng động và những huyền thoại của “rừng hoang” và “Aussie battler” (tạm dịch “chiến sĩ tranh đấu Úc”), tạo một xuất phát điểm thuận lợi cho mọi cư dân đến từ khắp nơi trên thế giới, và chứng kiến quá trình suy thoái và từ từ phục hồi phát triển của nền văn hóa Bản Địa.
Cư dân nguyên thủy ở Úc, thường được gọi là Thổ Dân Úc hay Người Bản Địa Úc, có nền văn hóa tiếp nối lâu đời nhất trên thế giới, bắt nguồn từ Kỷ Băng Hà. Mặc dù truyền thuyết và tranh luận đã khiến nhiều lãnh vực của thời tiền sử Úc trở nên mơ hồ nhưng nói chung người ta vẫn chấp nhận một điều là tổ tiên của Người Thổ Dân có nguồn gốc từ Indonesia và họ đã vượt biển tới đây từ khoảng 70.000 năm trước.
Người Âu Châu bắt đầu thám hiểm Úc Châu vào thế kỷ 16. Thoạt tiên là các nhà hàng hải Bồ Đào Nha và sau đó là các nhà thám hiểm Hà Lan và tên hải tặc bạo gan người Anh William Dampier. Vào năm 1770, thuyền trưởng James Cook đã lái thuyền đi dọc toàn bộ bờ biển phía đông Úc Châu và đã ghé vào vịnh Botany Bay. Ngay sau đó thuyền trưởng Cook tuyên bố vùng lục địa này thuộc chủ quyền của Anh Quốc và đặt tên là New South Wales.
Đến năm 1779, Joseph Banks (một nhà tự nhiên học trên chuyến du hành của James Cook) đưa ra ý kiến là Anh Quốc có thể giải quyết vấn đề quá tải của nhà tù bằng cách chuyển bớt tù nhân đến New South Wales. Năm 1787, đoàn thuyền đầu tiên với 11 chiếc tàu chở 750 tù nhân nam nữ đã khởi hành tới New South Wales và đã đến Úc ngày 26 tháng Giêng năm 1788 nhưng sau đó đoàn thuyền đã đi lên mạn bắc đến Sydney Cove nơi điều kiện đất đai và nước uống thuận tiện hơn.
Đối với những người mới đặt chân đến Úc, New South Wales là nơi khắc nghiệt và khủng khiếp, đó là chưa kể đến tình trạng thuộc địa mới này bị đe dọa thiếu thốn thực phẩm trong nhiều năm trời. Để chống chịu với cuộc đấu tranh chống lại thiên nhiên và một chính quyền áp bức, những cư dân Úc mới đã xây dựng và phát triển một nền văn hóa và chính nền văn hóa này đã trở thành nền tảng của huyền thoại “Aussie battler”.
Trong mấy thập niên sau đó, Úc Châu trở thành nơi hấp dẫn những người định cư tự do. Nhưng chỉ đến những năm của thập niên 1850, chính việc khám phá vàng mới thực sự thay đổi vĩnh viễn thuộc địa này. Các làn sóng di dân khổng lồ đã tràn đến Úc và việc khám phá một số mỏ vàng lớn đã góp phần đẩy mạnh nền kinh tế cũng như thay đổi cơ cấu xã hội thuộc địa của Úc. Những thành phần mới đến định cư đã tàn nhẫn xua đuổi người Thổ Dân và chiếm đoạt đất đai của họ để cấy cày hoặc khai thác mỏ.
Đến cuối thế kỷ 19, rất nhiều người đã có khuynh hướng lý tưởng hóa “vùng rừng rậm” – “the bush” (tức là bất kỳ nơi nào ở cách xa thành phố) và con người sinh sống ớ đấy. Một diễn đàn lớn về “chủ nghĩa quốc gia vùng rừng rậm” (bush nationalism) chính là tạp chí Bulletin khá phổ biến. Nội dung của tạp chí này chứa đầy những hình ảnh hài hước và tình cảm về cuộc sống đời thường. Hai ngòi bút nổi tiếng nhất của tạp chí Bulletin chính là hai huyền thoại Henry Lawson và ‘Banjo’ Paterson.
Úc chính thức trở thành một quốc gia vào ngày 1 tháng 1 năm 1901 qua sự thành lập một chính phủ liên bang bao gồm các thuộc địa riêng biệt. Lực lượng quân đội Úc đã sát cánh chiến đấu với lực lượng Anh Quốc trong cuộc chiến Boer và Thế Chiến Thứ Nhất. Nền kinh tế Úc đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vì hai sản phẩm kinh tế chiến lược của Úc là len và lúa mì bị rớt giá thê thảm.
Năm 1931, gần một phần ba lực lượng lao động của Úc lâm vào tình trạng thất nghiệp và nạn nghèo khó đã lan rộng khắp nơi. Nhưng chỉ 2 năm sau đó, năm 1933, nền kinh tế Úc đã bắt đầu hồi phục trở lại. Khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, quân Úc lại một lần nữa sát cánh chiến đấu với lực lượng quân đội Anh Quốc ở Châu Âu. Nhưng chính Hoa Kỳ là quốc gia đã giúp bảo vệ Úc khỏi sự tiến công của không lực Nhật bằng chiến thắng trên Biển San Hô.
Sau khi Thế Chiến Thứ Hai kết thúc, Úc lại tiếp nhận thêm một làn sóng di dân mới từ Âu Châu. Những di dân này đã có những đóng góp đáng kể cho nước Úc, làm hưng thịnh nền văn hóa và mở rộng tầm nhìn của đất nước. Kỷ nguyên thời hậu chiến là thời gian nền kinh tế Úc phát triển bùng nổ do nhu cầu cao về nguyên liệu thô trên thế giới. Sau đó Úc đã tham gia với Hoa Kỳ trong Cuộc Chiến Tranh Triều Tiên và năm 1965 đã gởi quân đội sang Việt Nam trợ giúp Hoa Kỳ trong Cuộc Chiến Tranh Việt Nam mặc dù việc hỗ trợ chỉ ở mức giới hạn. Lệnh tổng động viên được ban hành năm 1964 đã khiến nhiều thanh niên Úc đã gặp khó khăn vào thời gian này.
Tình trạng bất ổn trong xã hội do lệnh tổng động viên gây ra đã là yếu tố dẫn đến việc Đảng Lao Động lên cầm quyền vào năm 1972 dưới sự lãnh đạo của Thủ Tướng Gough Whitlam. Chính quyền Whitlam đã triệt thoái lực lượng quân đội ở Việt Nam, hủy bỏ việc thi hành nghĩa vụ quân sự và học phí bậc đại học và cao đẳng đồng thời xây dựng một hệ thống y tế phổ cập, miễn phí và ủng hộ quyền làm chủ đất đai của Người Thổ Dân.
Tuy nhiên, Chính quyền của Thủ Tướng Whitlam đã bị hạn chế bởi sự chống đối của một Thượng Viện thù địch cũng như dư luận về bộ máy quản lý không hiệu quả. Vào ngày 11 tháng 11 năm 1975, Tổng Toàn Quyền Úc (đại diện của Nữ Hoàng Anh ở Úc) đã thực hiện một điều chưa từng xảy ra ở Úc: Giải tán quốc hội và thành lập một chính phủ lâm thời dưới sự lãnh đạo của thủ lãnh Đảng Tự Do đối lập Malcolm Fraser. Liên đảng bảo thủ, bao gồm Đảng Tự Do và Đảng Quốc Gia, đã chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử được tổ chức sau đó và đã ở vị thế cầm quyền cho đến mãi tới năm 1983, Đảng Lao Động dưới sự lãnh đạo của nguyên lãnh tụ công đoàn Bob Hawke mới giành lại quyền lãnh đạo chính quyền.